acid dyes in dyeing

(textile, chem) thuốc nhuộm acid trong lãnh vực nhuộm
I. Len: Thuốc nhuộm acid có sự khác biệt lớn liên quan đến ái lực đối với sợi len. Độ pH khởi đầu trong bể nhuộm nằm trong phạm vi từ  pH 1,8 – 6 tùy thuộc vào ái lực của thuốc nhuộm được sử dụng. Độ acid khởi điểm không chỉ phụ thuộc vào ái lực của thuốc nhuộm mà đôi khi cũng có thể xác định được bởi những yếu tố khác.


Với độ acid cao, quá trình nhuộm sẽ  được xúc tiến nhanh hơn vì có nhiều ammonium cation trong bể. Tuy nhiên, liên kết tĩnh điện của thuốc nhuộm sẽ yếu đi trong dung dịch acid mạnh và qua đó sẽ không còn ổn định, tức là muối thuốc nhuộm có thể bị thuỷ phân trong quá trình nhuộm, điều dẫn dẫn đến việc hấp thu thuốc nhuộm không đồng nhất bởi sự di chuyển của thuốc nhuộm. Vì lý do này, thuốc nhuộm, tận trích từ dung dịch có acid mạnh, còn được gọi là thuốc nhuộm acid đều màu hoặc cân bằng. Thuốc nhuộm acid, tận trích từ dung dịch có acid yếu rất khó nhuộm đều màu vì chúng có liên kết mạnh với sợi len. Do đó, khi dùng để nhuộm, cần phải kỹ lưỡng và cẩn thận. Các loại thuốc nhuộm như vậy thường được gọi là thuốc nhuộm acid để tạo nỉ bề mặt, làm đầy bề mặt (milling acid dyes). Các loại thuốc này được áp dụng cho các loại vải dệt kim và warp-knit với các màu đậm, quần áo bơi, quần áo phụ nữ , vải nỉ vân vân. Thuốc nhuộm acid tận trích trong điều kiện acid mạnh được sử dụng khi cần phải nhuộm các sợi len một cách cẩn thậm với quá trình nhuộm càng ngắn càng tốt, và việc sử dụng loại thuốc nhuộm này rất cần thiết cho việc nhuộm đều màu cũng như điều kiện thẩm thấu. Tuy nhiên các loại này chỉ nên dùng khi độ bền ướt đáp ứng được nhu cầu ứng dụng cuối.  
Các ứng dụng bao gồm việc nhuộm vải dệt kim và warp-knit từ các tông màu nhạt đến màu trung bình cũng như cho các loại vải bọc (ghế, nệm). Ứng dụng chính của thuốc là để nhuộm chất len dễ bị tạo nỉ. Loại này cũng rất quan trọng trong việc nhuộm sợi, đặc biệt phù hợp cho việc nhuộm các bó sợi để  bảo đảm thuốc nhuộm thẩm thấu hoàn toàn. Sodium sulphate hỗ trợ việc tản màu cho đều qua việc giảm hấp lực tồn tại giữa các sợi len và thuốc nhuộm anion, cũng như giữ thuốc nhuộm phân tán trong dung dịch lâu hơn và không bị tận trích lên trên các chất xơ.
II. Lụa: Nhìn chung, các phương pháp tương tự có thể sử dụng để nhuộm lụa cũng như nhuộm len. Tuy nhiên, đặc biệt để nhuộm lụa, việc sử dụng loại xà phòng libe trong bể nhuộm, có tác dụng như một chất làm đều màu và có lợi cho chất lượng sợi. Trong nhiều trường hợp, xà phòng libe bị phân huỷ qua việc bổ sung các acid, và quá trình nhuộm được diễn ra trong dung dịch xà phòng libe phân huỷ, trong đó các acid béo tách ra từ xà phòng được duy trì ở trạng thái tinh phân tán bởi chất đạm sericin (C30H40N10O16) từ lụa. Nhiều thuốc nhuộm acid cũng có thể dùng nhuộm lụa trong dung dịch trung tính có chứa xà phòng và nếu có thể, có thêm sodium sulphate.
III. Polyamide: Do đặc tính cation của chúng, sợi polyamide có thể được nhuộm bằng thuốc nhuộm acid, kể cả các loại được tận trích trong acid mạnh cũng như trong acid yếu  hoặc trung tính. Nên thực hiện qui trình nhuộm loại sợi/vải này trong dung dịch có chứa ammonium acetate, ammonium sulphate hoặc acetic acid.
Do các liên kết ổn định của thuốc nhuộm acid đối với polyamide, sợi/ vải nhuộm có đặc tính độ bền màu ướt mà đôi khi tốt hơn so với len có cùng một cách nhuộm.
Độ bền ánh sáng của nhiều thuốc nhuộm acid với polyamide cũng khá tốt. Tuy nhiên, quan trọng trong việc nhuộm polyamide là chỉ nên chọn những thuốc nhuộm acid đặc biệt phù hợp cho dòng sợi này, liên quan đến khả năng đều màu, khả năng kết hợp (combinability)  và quan trọng là đạt được các độ bền cần thiết,