APEO

(noun, org chem) Alkyl phenol ethoxylate được công nhận trong một thời gian dài là có khả năng phân hủy sinh học tốt. Tuy nhiên phân hủy sinh học cơ bản dừng lại ở mức độ của phenol alkyl hoặc alkyl phenol đôi, ethoxyl hóa.

Trong các thử nghiệm độc tính, các chất phụ trong quá trình phân huỷ đã được chứng minh là rất độc hại cho cá. Với các nghiên cứu sâu hơn nữa nó cũng cho biết rằng mức độ phân huỷ giảm đáng kể ở nhiệt độ thấp và cho hàm lượng ethoxyl hoá cao hơn, ví dụ vào mùa đông.  Khi việc thất bại trong lãnh vực sinh thái của APEO  trở nên nổi tiếng, các nhà sản xuất và người sử dụng các sản phẩm này tại Đức đã tình nguyện tự điều chỉnh. Hiệp hội Tegawa (Registered Association of Textile Auxiliaries, Leather Auxiliaries, Tanning and Surfactant Raw Materials Industries) từ cuối năm 1988, đã sẵn sàng từ bỏ việc ứng dụng các chất APEO trong các chất làm ướt và giặt rửa chuyên dùng trong ngành công nghiệp dệt may.
Để thay thế, các chất  ethoxylate rượu béo (fatty alcohol ethoxylate) được phát triển. Ngược lại với các alkane sulphonat, tất cả các chất bề mặt không ionic dựa trên cơ sở ethoxyl hoá không là một chất duy nhất nhưng là một hỗn hợp của các phân tử với các khối ethylene oxide có số lượng khác nhau, và các chất này có thể xuất hiện trong mô hình phân phối khác nhau. Trong phản ứng hóa học của phenol alkyl hoặc rượu béo (fatty alcohol) với ethylene oxide, sẽ có sự khác biệt lớn trong phản ứng của các thành phần.
Phenol alkyl có khả năng phản ứng cao nhất và do đó nó có thể cho ra sản phẩm cuối, là chất mong muốn có tỷ lệ cao nhất, mặc cho mức độ ethoxyl hoá cao hay thấp. Vì cồn béo (fatty alcohol) là thành phần phản ứng trì trệ nhất, nên ethoxylate rượu béo (fatty alcohol ethoxylate) luôn chứa một tỷ lệ đáng kể rượu béo (fatty alcohol) không phản ứng. Rượu béo không hòa tan trong nước và vì thế sẽ làm giảm sự ổn định kiềm của sản phẩm cuối.