APEOs and NPEOs in textiles

(noun, org chem) APEO và NPEO trong dệt may,
alkylphenol ethoxylate ( APEO – thường được gọi là alkyphenols hoặc alkylphenyls ) là chất phản ứng bề mặt có tính nhũ hóa và phân tán, vì vậy chúng có đặc tính làm ướt tốt, ngấm thấu tốt, nhũ hóa, phân tán, hòa tan và tẩy rửa. Các yếu tố này làm cho chúng thích hợp cho nhiều ứng dụng: chúng đã được sử dụng hơn 50 năm trong hàng loạt các sản phẩm. Trong ngành công nghiệp dệt may, chúng được sử dụng trong chất tẩy rửa, chất phủ hoặc chất chống thấm nước, trong bột nhão dùng in ấn, trong chất keo và trong việc nhuộm. APEO hoặc alkylphenol ethoxylates quan trọng nhất trong ngành công nghiệp dệt may là NPEO (nonylphenol ethoxylates) và OPEO (Octylphenol ethoxylates) do tính chất tẩy rửa của của chúng. Khoảng 90% APEO được sản xuất trong thực tế là NPEO.


Ba vấn đề quan trọng liên quan đến APEO và NPEOs trong môi trường cần phải đặc biệt quan tâm là:
Chúng ở khắp mọi nơi. Chúng có trong các công thức, trong thực phẩm đóng hộp, trong sơn phủ và các chất tẩy rửa vết dơ. Chúng có mặt trong bụi nhà, trong máu và nước tiểu, trong sữa mẹ và trong máu dây rốn của trẻ sơ sinh. Nồng độ của NPEO đã được kiểm tra trên toàn thế giới, ở các vùng nước bề mặt, trầm tích, nước thải, không khí, sinh vật trong nước, và thậm chí cả trong các thực phẩm điển hình của con người. Và đáng lo ngại nhất,  nồng độ của APEO hiện đang gia tăng. EPA Hoa Kỳ đã ghi nhận mức tăng của alkylphenol trong các mẫu nước lấy từ sông suối trên khắp nước Mỹ.
Thời gian phân huỷ dài đang báo động một vấn đề ô nhiễm môi trường dài hạn. APEO chậm phân hủy và chúng có xu hướng tích tụ sinh học. Chúng cũng di chuyển lây nhiễm lên chuỗi thực phẩm của con người. Mặc dù APEO tự nó không phải là chất gây ung thư, gây quái thai hoặc gây đột biến gen, nhưng các nghiên cứu đã cho thấy rằng khi phân huỷ, các sản phẩm phụ có độc tính cao hơn, bền và có khuynh hướng tích tụ sinh học nhiều hơn chính APEO.
Người ta cũng chứng minh được sự độc hại đối với sinh vật dưới nước, gây rối loạn nội tiết đối với động vật phát triển cao, và do đó các chất này sẽ gây nguy hiểm cho con người. Như là một chất gây rối loạn nội tiết tố xuất phát từ môi trường, các chất mới này có thể xâm nhập cơ thể con người thông qua một loạt các kênh, với các hiệu ứng giống như estrogen, và gây ảnh hưởng xấu cho sự điều tiết hormone bình thường, dẫn đến việc giảm số lượng tinh trùng ở nam giới. Nghiên cứu được công bố trong ấn bản tháng 9 2006 của Khoa học về độc tính (toxicological Sciences) cho thấy nhau thai của con người phản ứng với alkylphenyls trong ba tháng đầu. Kết quả là có thể hư thai hoặc thai phát triển không bình thường.
Hãy suy nghĩ của việc sử dụng cá để thay thế cho chim hoàng yến trong các mỏ than. Bởi vì hầu hết các nhà máy không xử lý nước thải, nước thải có chứa APEO được thải trực tiếp vào nguồn nước ngầm, và hậu quả là sự rối loạn hormone trong các loài cá. Ví dụ cổ điển là tính lưỡng tính trong cá (ức chế sự phát triển tinh hoàn ở giống đực), với các hậu  quả như dị sinh, biến dạng. Trong một nghiên cứu khác, sản lượng trứng của cá ngựa vằn, khi tiếp xúc với nước thải ô nhiễm có APEO, đã giảm đến 89,6% (5 ); những nghiên cứu khác tìm thấy tỷ lệ phần trăm của trứng thụ tinh giảm, giảm số phôi thai sống còn, và phôi thai phát triển không bình thường. Những kết quả này và các nghiên cứu khác chỉ ra rằng khả năng sinh sản của các loài cá bản địa có thể bị tổn hại trong dòng nước thải có chứa alkylphenyls. Các nghiên cứu khác đã xác định rằng cá, khi tiếp xúc với các estrogen môi trường, không thể điều chỉnh cân bằng nội môi nội bộ của chúng (gọi là osmoregulation, có liên quan đến khả năng của cá để tránh mất nước hoặc bị ngộp, cũng như khả năng chống lại các ảnh hưởng của nước ngọt hoặc nước mặn). Những nghiên cứu về APEO tại các dòng sông ở Mỹ đã đưa các nhà khoa học đi đến kết luận: cá hiện đang là –  chim hoàng yến của chúng ta trong các mỏ than khi xưa.
Các nhà máy xử lý nước thải về mặt lý thuyết có khả năng ngăn chặn APEO một cách hiệu quả, nhưng chúng thường không được thiết kế để loại bỏ APEO ra khỏi nước thải. Thông thường hệ thống thoát nước bùn chứa đầy APEO.
Tại Mỹ, các hóa chất này về cơ bản không được kiểm soát, cũng không có bất kỳ hạn chế nào về việc sử dụng chúng. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) đã tập trung nỗ lực nghiên cứu việc xác định mức chấp nhận được của các hợp chất này trong nước và xác định NPEs cũng như các chất hóa học nonylphenol (NP) để nghiên cứu thêm vì lo ngại về tác động của chúng đối với môi trường và con người. Tại sao không có gì được thực hiện cụ thể ? Bởi vì thử nghĩ xem, đây là những thương vụ lớn, và những vận động hành lang trong ngành hóa học không chỉ cản trở quy định mà thậm chí đã và còn cố gắng để ngăn chặn các nghiên cứu. Việc thiếu hành động về phía cơ quan quản lý môi trường ở Hoa Kỳ là do việc nghiên cứu được thực hiện bởi Hội đồng Nghiên cứu Alkylphenol và Ethoxylate, được thành lập bởi Hiệp hội sản xuất hóa chất, để quản lý các nghiên cứu về APEO (Hội đồng Nghiên cứu APE, 2001).
Đến nay hội này đã chối bỏ tất cả tuyên bố rằng nồng độ NP trong hệ thống sông ngòi của Hoa Kỳ hiện ở nồng độ có thể gây ra một tác động đáng kể. Hội đồng nghiên cứu Alkylphenol và ethoxylate cũng đặt vấn đề không thừa nhận tiềm năng estrogen của NP (Hội đồng nghiên cứu APE, 2001).
Tại châu Âu, việc sử dụng NPEO đã bị cấm hoặc hạn chế một cách tự nguyện  từ năm 1986. Từ năm 1998, việc sử dụng các APEO trong chất tẩy rửa đã bị cấm ở Đức – và kể từ tháng Giêng năm 2005, chỉ thị của EU 2003/53/EG đã cấm việc sử dụng NPEO ở nồng độ cao hơn so với 0,1% trong công thức của sản phẩm. Tuy nhiên chúng ta sẽ mất nhiều năm trước khi có sự tiến bộ trong việc loại bỏ APEO hoàn toàn, như đã được thực hiện tại Na Uy vào năm 2002.
Mặc dù bị cấm ở EU, nhiều công ty vẫn còn có địa điểm sản xuất hoặc nhà cung cấp bên ngoài châu Âu, nơi việc sử dụng NPEO không bị cấm. Nhãn dệt nhãn sinh thái như  EU flower và Öko- Tex 100 (1000) cũng đã cấm việc sử dụng các APEO.
Nhưng việc tự nguyện cũng như việc ngăn cấm ở một số nước vẫn không đủ để ngăn chặn tất cả, như Greenpeace mới đây đã xác nhận. Vận động Detox của họ được thiết kế để phơi bày các liên kết giữa các thương hiệu quần áo, các nhà cung cấp và sự việc ô nhiễm nguồn nước trên toàn thế giới. Các nghiên cứu Greenpeace cho thấy rằng NPEs không chỉ bị thải vào nước – chúng thực ra vẫn còn lại trong sản phẩm đã hoàn tất. Các hóa chất được tìm thấy trong quần áo thành phẩm của các thương hiệu hàng đầu (Calvin Klein , Levi và Victoria ‘s Secret  vân vân) bao gồm cả ethoxylates nonylphenol (NPEs). Nồng độ NPEOs đã được tìm thấy trong 89 sản phẩm may mặc (với chỉ dưới hai phần ba sản phẩm được kiểm tra) ở các cấp độ khác nhau, từ trên 1 phần triệu lên đến 45.000 phần triệu trong các thương hiệu hàng đầu ( Calvin Klein , Levi , Victoria ‘s Secret , H & M , Gap vân vân ), trên 20% các mặt hàng được kiểm tra có hơn 100 phần triệu.